Tiểu sử cầu thủ Zlatan Ibrahimovic
Thông tin chi tiết, tiểu sử, chiều cao, cân nặng, năm sinh, quê quán và sự nghiệp cầu thủ người Thụy Điển Zlatan Ibrahimovic.
Cầu thủ Zlatan Ibrahimovic |
Tiểu sử cầu thủ Zlatan Ibrahimovic :
Tên đầy đủ : Zlatan Ibrahimović
Ngày sinh : 3 tháng 10, 1981
Nơi sinh : Malmö, Thụy Điển
Chiều cao : 1,95m
Vị trí : Tiền đạo
CLB hiện nay : Manchester United
Số áo : 9
Zlatan Ibrahimović là một cầu thủ bóng đá người Thụy Điển hiện đang chơi vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Manchester United. Anh còn là một cựu cầu thủ của đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển khi ra mắt vào năm 2001 và trở thành đội trưởng của đội tuyển này từ năm 2010 cho đến khi giã từ đội tuyển quốc gia vào năm 2016.
Ibrahimović bắt đầu sự nghiệp cầu thủ bóng đá tại CLB Malmö FF cuối những năm 1990 trước khi được Ajax - nơi đầu tiên làm nên tên tuổi của anh - kí hợp đồng. Anh sau đó đầu quân cho Juventus FC và cùng với David Trezeguet tạo nên một cặp tiền đạo khét tiếng. Vào năm 2006, anh kí hợp đồng với Inter Milan và góp mặt trong đội hình tiêu biểu của năm của UEFA trong hai năm 2007 và 2009. Anh là vua phá lưới của giải Serie A trong mùa 2008 - 2009 cũng như đạt Scudetto trong 3 năm liên tiếp. Anh gia nhập FC Barcelona vào mùa hè năm 2009 trước khi trở lại Ý một mùa sau trong màu áo của A.C. Milan và giành thêm một Scudetto cùng đội bóng này mùa 2010 - 2011. Tháng bảy năm 2012, anh đầu quân cho Paris Saint Germain và giành bốn chức vô địch Ligue 1 liên tiếp, ba Coupe de la Ligue, hai Coupe de France và trở thành vua phá lưới của giải bóng đá Pháp trong ba mùa. Vào năm 2015, anh trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử của CLB.
Ibrahimović là một trong mười cầu thủ từng khoác áo trên 100 trận cho ĐTQG Thụy Điển. Anh là người ghi bàn nhiều nhất trong lịch sử bóng đá nước này với 62 bàn thắng. Anh góp mặt tại kì World Cup 2002 và 2006, cũng như các kì EURO 2004, 2008, 2012 và 2016. Anh đã đoạt giải Quả Bóng Vàng cho cầu thủ Thụy Điển xuất sắc nhất 10 lần, trong đó có 9 lần thắng giải liên tiếp từ 2007 đến 2015.
Với lối đá hiệu quả và kĩ năng dứt điểm thượng thừa, Ibrahimović được coi là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất của bóng đá thế giới, cũng như là một trong những cầu thủ hay nhất thế hệ của anh. Ngoài sân cỏ, anh còn được biết đến với tính cách ngang tàng cùng với những phát ngôn gây tranh cãi của mình.
Niên thiếu :
Ibrahimović sinh ra tại Thụy Điển trong một gia đình bố mẹ là dân nhập cư từ Nam Tư cũ. Bố là người Bosnia, tên Šefik, sinh ra tại Bijeljina và mẹ là người Croatia có quê tại Zadar. Bố mẹ anh đã gặp nhau tại Thụy Điển và Zlatan đã lớn lên tại Rosengård, một khu phố ở Malmö nổi tiếng là nơi có các cộng đồng dân nhập cư. Sau khi nhận được một đôi giày đá bóng, Ibra bắt đầu chơi bóng năm lên 6 tuổi. Trong một cuộc phỏng vấn anh cho biết hồi nhỏ khi đá bóng, trong một trận đấu, sau khi hiệp một kết thúc, đội bóng của anh bị dẫn 5-0, thế nhưng ở hiệp 2 anh vào sân và bất ngờ ghi 8 bàn thắng. Hồi niên thiếu, anh là thành viên quen thuộc của đội trẻ Malmö FF. Vào năm 15 tuổi, Ibrahimovic chút nữa đã rời bỏ đá bóng, bởi anh thích làm việc ở một cảng biển ở Malmo, nhưng huấn luyện viên đã động viên anh tiếp tục chơi bóng. Dù sau đó đỗ vào Borgarskolan ở Malmö, anh đã sớm bỏ học để tập trung vào nghề bóng đá
Sự nghiệp cầu thủ :
Malmö FF :
Ibrahimović đã bắt đầu chơi bóng đá chuyên nghiệp với câu lạc bộ Thụy Điển Malmö FF mùa giải năm 1999 tại Allsvenskan, giải hàng đầu Thụy Điển. Trong khi đang chơi tại câu lạc bộ này, Arsène Wenger đã cố thuyết phục anh gia nhập Arsenal nhưng không thành công. Khi đó, Wenger đã mời cầu thủ này thử việc nhưng anh đã đáp lại bằng câu nói nổi tiếng: "Zlatan không thử việc." Ngoài Wenger, Leo Beenhakker cũng tỏ ra quan tâm Ibrahimović sau khi xem anh chơi ở La Manga, Tây Ban Nha. Xem Ibrahimović ghi một bàn bất ngờ trong một trận giao hữu với đội Na Uy Moss FK,Beenhakker bắt đầu tin vào tài năng của anh. Anh đã trở lại Amsterdam và ngày 22 tháng 3 năm 2001, một thỏa thuận giữa Ajax và Malmö liên quan đến việc chuyển nhượng Zlatan đến Amsterdam đã được thông báo và tháng 7 cùng năm, anh đã gia nhập Ajax với giá chuyển nhượng €7,8 triệu.
Ajax :
Ibrahimovic không có nhiều cơ hội ra sân dưới sự dẫn dắt của Co Adriaanse, nhưng khi Adriaanse bị sa thải vào ngày 29 tháng 11 năm 2001, tân huấn luyện viên Ronald Koeman đưa Ibra vào đội hình chính thức của Ajax vô địch Eredivisie 2001-02. Mùa giải sau đó, Ibra ghi 2 bàn trong chiến thắng 2-1 trước đội bóng Pháp Olympique Lyonnais ở trận đấu ra mắt cúp C1 vào ngày 17 tháng 9 năm 2002. Anh ghi tổng cộng 4 bàn ở cúp C1 cho tới khi Ajax thua AC Milan ở tứ kết. Trong mùa giải cuối cùng ở Ajax, tiếng tăm của Ibra bắt đầu vang dội khi anh ghi một bàn thắng tuyệt vời vào lưới NAC Breda vào ngày 22 tháng 8 năm 2004, một bàn thắng sau đó được bầu là "Bàn thắng đẹp nhất năm" theo bình chọn của người xem Eurosport.Anh chỉ ghi 1 bàn ở cúp C1 2003-04 (gặp Celta Vigo vào ngày 22 tháng 10) khi Ajax bị loại từ vòng bảng.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2004, Ibra gây ra chấn thương cho đồng đội ở Ajax Rafael van der Vaart trong một trận giao hữu gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan, chấn thương dẫn đến những lời chỉ trích của van der Vaart rằng Ibra đã cố tình gây chấn thương cho anh. Điều này khiến Ibrahimovic ngay lập tức bị bán sang Juventus vào ngày 31 tháng 8.
Juventus :
Ibrahimovic chuyển từ Ajax sang Juventus với mức giá 16 triệu euro.Anh lập tức có suất trong đội hình chính do tay săn bàn David Trezeguet bị chấn thương, và ghi 16 bàn. Gần cuối mùa giải, Juventus từ chối mức giá 70 triệu euro mà Real Madrid đưa ra với anh, mà sau này được người đại diện của Ibra công bố, Mino Raiola, nhằm nâng mức giá của anh trên thị trường chuyển nhượng.Vào ngày 14 tháng 11 năm 2005, anh được trao danh hiệu Guldbollen, giải thưởng được trao cho cầu thủ Thuỵ Điển xuất sắc nhất năm.
Mùa giải kế tiếp không được thành công như mùa giải đầu tiên; vị trí của anh trên hàng tiền đạo Juventus bị thay đổi, bởi vai trò của anh không còn là một cầu thủ ghi bàn nữa mà anh chuyển sang đá cánh nhiều hơn, đóng góp nhiều hơn trong việc xây dựng lối chơi, đặc biệt là một cầu thủ mồi nhử, và số lần kiến tạo của anh tăng lên. Ở mùa giải 2005-06, các fan Juventus thường thất vọng với anh do sự xuất hiện mờ nhạt trong các trận đấu quan trọng của đội bóng như trận thua Arsenal ở cúp C1. Juventus bị tước danh hiệu Scudetto do vụ scandal Calciopoli, và bị giáng xuống Serie B. Huấn luyện viên mới cố gắng thuyết phục Ibra và các cầu thủ giỏi khác ở lại Juventus, nhưng cầu thủ và người đại diện đều quyết tâm ra đi, khi Raiola đe doạ các hành động luật pháp nhằm tháo rỡ Ibrahimovic khỏi bản hợp đồng.
Internazionale :
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2006, Ibra hoàn tất vụ chuyển nhượng với trị giá 24,8 triệu euro sang Internazionale, kí hợp đồng 4 năm,điều này diễn ra chỉ vài ngày sau khi Patrick Vieira hoàn tất vụ chuyển nhượng của mình.Zlatan cho biết anh từng ủng hộ Inter Milan khi anh còn nhỏ.Anh bắt đầu quãng thời gian ở đội bóng bằng việc ghi 1 bàn và kiến tạo một bàn thắng trong trận đấu ở Serie A gặp ACF Fiorentina và kết thúc mùa giải đầu tiên với danh hiệu cầu thủ ghi nhiều bàn nhất của Inter với 15 bàn.
Ibra chơi trận thứ 100 ở Serie A vào ngày 16 tháng 9 năm 2007. Hợp đồng của anh được gia hạn vào năm 2007, kéo dài thời hạn tới tháng 6 năm 2013.Anh được xếp vào hàng những cầu thủ bóng đá có số tiền lương cao nhất.Anh ghi 2 bàn ở cúp C1 tại vòng bảng gặp PSV Eindhoven vào ngày 2 tháng 10, bàn thắng đánh dấu pha làm bàn đầu tiên của anh ở cúp châu Âu kể từ tháng 12 năm 2005 và bàn đầu tiên trong màu áo Inter, và kết thúc với 5 bàn sau 7 trận ở cúp C1. Ở trận gặp Parma trong ngày cuối cùng của mùa giải vào ngày 18 tháng 5 năm 2008, anh trở lại từ một chấn thương và ghi cả 2 bàn trong chiến thắng 2-0 của Inter, giúp đội bóng giành được danh hiệu Scudetto thứ 3 liên tiếp.
Vào ngày 16 tháng 11 năm 2008, Ibra cho biết anh sẽ không trở lại Allsvenskan khi nào còn là một cầu thủ chuyên nghiệp, mà anh sẽ thi đấu nốt phần còn lại của sự nghiệp ở nước ngoài.
Mùa giải 2008-09 của Ibra bắt đầu một cách xán lạn. Bàn thắng của anh vào lưới Bologna F.C. 1909 được bầu là "Bàn thắng đẹp nhất năm". Anh ghi bàn thắng đó bằng gót chân mà không cần di chuyển và dứt điểm chính xác vào lưới sau quả tạt của Adriano.Phong độ của Ibra ở mùa giải đó đã được chú ý, với những đường di chuyển thông minh khi có và cả khi không bóng, và những đường chuyền của anh đã trở nên đáng chú ý, chẳng hạn đường chuyền điêu luyện của anh trong trận gặp S.S. Lazio. Anh kết thúc tháng thi đấu với một bàn thắng từ xa trong trận gặp Genoa, đó là trận thua đầu tiên của họ ở mùa giải, khiến Inter trở thành đội duy nhất không thua trên sân nhà ở giải đấu. Trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, Ibra ghi 2 bàn vào lưới Atalanta, giành danh hiệu Capocannoniere bằng việc ghi nhiều hơn Marco Di Vaio và Diego Milito với 25 bàn trong cả mùa giải.
Ibrahimović và Mario Balotelli trong trận gặp Palermo vào năm 2009. |
Sau khi Maxwell hoàn thành vụ chuyển nhượng tới Barcelona, chủ tịch Joan Laporta xác nhận rằng đã có một thoả thuận sơ bộ giữa FC Barcelona và Inter Milan về việc Ibra sẽ gia nhập đội bóng còn Samuel Eto'o sẽ di chuyển theo chiều ngược lại, cộng thêm một khoản tiền.Laporta cho biết những cuộc đàm phán bắt đầu khi ông đặt một chuyến bay, ban đầu là từ Ukraina tới Tây Ban Nha, để có một cuộc nói chuyện với Massimo Moratti, chủ tịch Inter, ở Milan.bra rời Inter Milan khi đội bóng đang có chuyến tập huấn mùa hè ở Mĩ ở giải World Football Challenge vào ngày 23 tháng 7 năm 2009 để có những cuộc thương thảo với Barca, và trận cuối cùng của anh cho Inter là gặp Chelsea.Say khi Inter Milan đồng ý các điều khoản hợp đồng với Eto'o và Barcelona với Ibrahimovic,Barcelona cho biết Ibra sẽ tới vào ngày 26 tháng 7 năm 2009 để có các cuộc kiểm tra sức khoẻ vào ngày 27 tháng 9.Ibra vượt qua cuộc kiểm tra ra mắt trước 60,000 cổ động viên ở Camp Nou.Anh kí hợp đồng 5 năm,với mức giá 46 triệu euro (65 triệu USD) và đổi Eto'o (định giá khoảng 20 triệu bảng) và cho mượn Aleksandr Hleb (mức phí để mua hẳn là 10 triệu euro)với số tiền giải phóng hợp đồng là 250 triệu euro,khiến Ibra có giá 66 triệu euro (94 triệu USD).
Hleb từ chối vụ chuyển nhượng và sau đó được đem cho VfB Stuttgart mượn, và Barcelona tăng số tiền thêm 3 triệu euro,khiến tổng giá trị của Ibra là 69 triệu euro (99 triệu USD). Điều này đã phá vỡ kỉ lục về giá trị chuyển nhượng trong lịch sử bóng đá. Anh kí bản hợp đồng có mức lương hàng năm 14,5 triệu euro bao gồm cả tiền thưởng.Barcelona cho biết Ibra đã phẫu thuật thành công chấn thương ở cánh tay trái của anh vào ngày 28 tháng 7 năm 2009.Anh trở lại tập luyện vào ngày 12 tháng 8 năm 2009 cho Barelona.Barca cũng trả FBK Balkan, đội trẻ của Ibrahimovic, 144,000 euro, và Malmö FF, đội bóng đầu tiên của Ibra, 2 triệu euro theo luật thống nhất của FIFA.
Zlatan Ibrahimović và đồng đội Xavi. |
Manchester United :
Vào ngày 1 tháng 7 năm 2016, Zlatan Ibrahimovic đã ký hợp đồng với câu lạc bộ bóng đá Manchester United có thời hạn một năm và kèm theo điều khoản gia hạn tùy vào phong độ của cầu thủ này.
Jose Mourinho và Zlatan Ibrahimovic. |
Sự nghiệp thi đấu quốc tế :
Mặc dù có thể chọn để chơi cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bosna và Hercegovina và đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia, nhưng Ibra lại chọn chơi cho Thuỵ Điển, nơi anh sinh ra.
Ibra có trận ra mắt cho đội tuyển Thuỵ Điển trong trận hoà 0-0 với đội tuyển bóng đá quốc gia Quần đảo Faroe ở Värendsvallen vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Trận đấu chính thức đầu tiên của anh là ở vòng loại World Cup 2002 gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Azerbaijan vào ngày 7 tháng 10. Ibrahimovic là thành viên đội tuyển Thuỵ Điển ở vòng chung kết World Cup 2002 lọt tới vòng 16 đội trước khi bị loại bởi đội tuyển bóng đá quốc gia Senegal.
Ibrahimovic được ra sân trong đội hình chính thức ở Euro 2004, ghi một bàn trong trận gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Bulgaria từ chấm penalty và một bàn thắng từ những phút cuối trong trận gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Tuy nhiên, anh lỡ một quả penalty khi Thuỵ Điển phải về nước sau khi thua trên chấm luân lưu trước đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan. Anh không ghi được bàn nào ở World Cup 2006 khi Thuỵ Điển lại bị loại ở vòng 16 đội, lần này là trước đội tuyển bóng đá quốc gia Đức.
Anh được triệu tập ở vòng loại Euro 2008 gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Liechtenstein vào ngày 6 tháng 9 năm 2006, nhưng hai ngày trước trận đấu, anh gây ấn tượng xấu bằng việc rời khách sạn cùng đồng đội Christian Wilhelmsson và Olof Mellberg và vào một hộp đêm. Mặc dù không cầu thủ nào có biểu hiện dùng rượu, họ đều bị loại bởi huấn luyện viên Lars Lagerbäck như một hình phạt và không được tham dự trận đấu tiếp theo. Melberg và Wilhelmsson không có ý kiến gì với quyết định của huấn luyện viên, nhưng Ibra cảm thấy rằng như vậy là bất công và từ chối tham dự trận đấu tiếp theo của đội tuyển Thuỵ Điển gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Iceland và đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Anh cũng không tham dự trận giao hữu gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập vào ngày 7 tháng 2 năm 2007, nhưng kết thúc cách cư xử trẻ con của mình một tháng sau,và trở lại đội tuyển trong trận gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Ireland vào ngày 28 tháng 3. Anh không ghi bàn nào trong cả 12 trận vòng loại; anh có một lần đưa bóng vào lưới đối phương nhưng bị từ chối vì lỗi việt vị trong trận thua 3-0 trước Tây Ban Nha vào ngày 17 tháng 11. Vào ngày 12 tháng 11 năm 2007, Ibra được trao tặng danh hiệu Quả bóng vàng Thuỵ Điển khi là "Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Thuỵ Điển".
Ibra kết thúc quãng thời gian khô hạn bàn thắng, kéo dài 2 năm, trong trận gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Hi Lạp ở trận mở màn của Thuỵ Điển ở Euro 2008 vào ngày 10 tháng 6 năm 2008, và trận đấu tiếp theo gặp Tây Ban Nha 4 ngày sau.Anh kết thúc giải với 2 bàn thắng khi Thuỵ Điển bị loại ở vòng bảng bởi đội tuyển bóng đá quốc gia Nga.
Ibrahimovic ghi 1 bàn trong chiến thắng 4-0 trước đội tuyển bóng đá quốc gia Malta vào ngày 10 tháng 6 năm 2009 ở vòng loại World Cup 2010.Vào ngày 5 tháng 9 năm 2009, anh ghi bàn thăng thứ hai ở sân Stadium Puskás Ferenc gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary trong trận thắng 2-1 của Thuỵ Điển ở trận đấu thuộc vòng loại.
Sau kì Euro 2016 không thành công của đội tuyển Thụy Điển (đứng cuối bảng E với vỏn vẹn 1 điểm, 1 trận hòa, 2 trận thua, chỉ ghi được 1 bàn thắng và bị thủng lưới 3 bàn), Zlatan Ibrahimović chính thức tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế ở đội tuyển quốc gia. Tổng cộng anh đã 116 lần ra sân và ghi được 62 bàn thắng.
Ibra trong màu áo đội tuyển Thụy Điển. |
Thống kê sự nghiệp:
Câu lạc bộ
- Số liệu thống kê chính xác tới 21 tháng 5, 2016
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | ||
Malmö FF | 1999 | 6 | 1 | — | — | — | 6 | 1 | |||
2000 | 26 | 12 | — | — | — | 26 | 12 | ||||
2001 | 8 | 3 | — | — | — | 8 | 3 | ||||
Tổng cộng | 40 | 16 | — | — | — | 40 | 16 | ||||
Ajax Amsterdam | 2001–02 | 24 | 6 | 3 | 1 | 6 | 2 | — | 33 | 9 | |
2002–03 | 25 | 13 | 3 | 3 | 13 | 5 | 1 | 0 | 42 | 21 | |
2003–04 | 22 | 13 | 1 | 0 | 8 | 2 | — | 31 | 15 | ||
2004–05 | 3 | 3 | — | — | 1 | 0 | 4 | 3 | |||
Tổng cộng | 74 | 35 | 7 | 4 | 27 | 9 | 2 | 0 | 110 | 48 | |
Juventus | 2004–05 | 35 | 16 | 0 | 0 | 10 | 0 | — | 45 | 16 | |
2005–06 | 35 | 7 | 2 | 0 | 9 | 3 | 1 | 0 | 47 | 10 | |
Tổng cộng | 70 | 23 | 2 | 0 | 19 | 3 | 1 | 0 | 92 | 26 | |
Internazionale | 2006–07 | 27 | 15 | 1 | 0 | 7 | 0 | 1 | 0 | 36 | 15 |
2007–08 | 26 | 17 | 0 | 0 | 7 | 5 | 1 | 0 | 34 | 22 | |
2008–09 | 35 | 25 | 3 | 3 | 8 | 1 | 1 | 0 | 47 | 29 | |
Tổng cộng | 88 | 57 | 4 | 3 | 22 | 6 | 3 | 0 | 117 | 66 | |
Barcelona | 2009–10 | 29 | 16 | 2 | 1 | 10 | 4 | 4 | 0 | 45 | 21 |
2010–11 | — | — | — | 1 | 1 | 1 | 1 | ||||
Tổng cộng | 29 | 16 | 2 | 1 | 10 | 4 | 5 | 1 | 46 | 22 | |
Milan | 2010–11 | 29 | 14 | 4 | 3 | 8 | 4 | — | 41 | 21 | |
2011–12 | 32 | 28 | 3 | 1 | 8 | 5 | 1 | 1 | 44 | 35 | |
Tổng cộng | 61 | 42 | 7 | 4 | 16 | 9 | 1 | 1 | 85 | 56 | |
Paris Saint-Germain | 2012–13 | 34 | 30 | 3 | 2 | 9 | 3 | 0 | 0 | 46 | 35 |
2013–14 | 33 | 26 | 4 | 5 | 8 | 10 | 1 | 0 | 45 | 41 | |
2014–15 | 24 | 19 | 3 | 5 | 5 | 2 | 2 | 4 | 35 | 30 | |
2015–16 | 31 | 38 | 6 | 7 | 10 | 5 | 4 | 0 | 51 | 50 | |
Tổng cộng | 122 | 113 | 13 | 16 | 33 | 20 | 12 | 7 | 180 | 156 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 484 | 302 | 42 | 30 | 127 | 51 | 24 | 9 | 677 | 392 |
Đội tuyển quốc gia :
- Số liệu thống kê chính xác tới 22 tháng 6, 2016
Đội tuyển quốc gia | Mùa giải | Số lần ra sân | Số bàn thắng |
---|---|---|---|
Thụy Điển | |||
2001 | 5 | 1 | |
2002 | 10 | 2 | |
2003 | 4 | 3 | |
2004 | 12 | 8 | |
2005 | 5 | 4 | |
2006 | 6 | 0 | |
2007 | 7 | 0 | |
2008 | 7 | 2 | |
2009 | 6 | 2 | |
2010 | 4 | 3 | |
2011 | 11 | 3 | |
2012 | 8 | 11 | |
2013 | 11 | 9 | |
2014 | 5 | 3 | |
2015 | 10 | 11 | |
2016 | 5 | 0 | |
Tổng cộng | 116 | 62 |
Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia :
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 7 tháng 10, 2001 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Azerbaijan | 3–0 | 3–0 | Vòng loại World Cup 2002 |
2 | 21 tháng 8, 2002 | Sân vận động Lokomotiv, Moscow, Nga | Nga | 1–1 | 1–1 | Giao hữu |
3 | 12 tháng 10, 2002 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Hungary | 1–1 | 1–1 | Vòng loại Euro 2004 |
4 | 30 tháng 4, 2003 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Croatia | 1–1 | 1–2 | Giao hữu |
5 | 6 tháng 9 năm 2003 | Sân vận động Ullevi, Gothenburg, Thụy Điển | San Marino | 3–0 | 5–0 | Vòng loại Euro 2004 |
6 | 5–0 | |||||
7 | 31 tháng 3, 2004 | Sân vận động Ullevi, Gothenburg, Thụy Điển | Anh | 1–0 | 1–0 | Giao hữu |
8 | 14 tháng 6, 2004 | Sân vận động José Alvalade, Bồ Đào Nha | Bulgaria | 4–0 | 5–0 | Euro 2004 |
9. | 18 tháng 6, 2004 | Sân vận động Dragão, Bồ Đào Nha | Ý | 1–1 | 1–1 | Euro 2004 |
10 | 18 tháng 8, 2004 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Hà Lan | 2–2 | 2–2 | Giao hữu |
11 | 4 tháng 9, 2004 | Sân vận động quốc gia Ta' Qali, Malta | Malta | 1–0 | 7–0 | Vòng loại World Cup 2006 |
12 | 2–0 | |||||
13 | 3–0 | |||||
14 | 5–0 | |||||
15 | 4 tháng 6, 2005 | Sân vận động Ullevi, Gothenburg, Thụy Điển | Malta | 4–0 | 6–0 | Vòng loại World Cup 2006 |
16 | 3 tháng 9, 2005 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Bulgaria | 3–0 | 3–0 | Vòng loại World Cup 2006 |
17 | 7 tháng 9, 2005 | Sân vận động Ferenc Puskás, Budapest, Hungary | Hungary | 1–0 | 1–0 | Vòng loại World Cup 2006 |
18 | 12 tháng 10, 2005 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Iceland | 1–1 | 3–1 | Vòng loại World Cup 2006 |
19 | 10 tháng 6, 2008 | Sân vận động Wals Siezenheim, Salzburg, Áo | Hy Lạp | 1–0 | 2–0 | Euro 2008 |
20 | 14 tháng 6, 2008 | Sân vận động Tivoli Neu, Innsbruck, Áo | Tây Ban Nha | 1–1 | 1–2 | Euro 2008 |
21 | 10 tháng 6, 2009 | Sân vận động Ullevi, Gothenburg, Thụy Điển | Malta | 3–0 | 4–0 | Vòng loại World Cup 2010 |
22 | 5 tháng 9, 2009 | Sân vận động Ferenc Puskás, Budapest, Hungary | Hungary | 2–1 | 2–1 | Vòng loại World Cup 2010 |
23 | 11 tháng 8, 2010 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Scotland | 1–0 | 3–0 | Giao hữu |
24 | 7 tháng 9, 2010 | Sân vận động Swedbank, Malmö, Thụy Điển | San Marino | 1–0 | 6–0 | Vòng loại Euro 2012 |
25 | 5–0 | |||||
26 | 7 tháng 6, 2011 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Phần Lan | 2–0 | 5–0 | Vòng loại Euro 2012 |
27 | 3–0 | |||||
28 | 4–0 | |||||
29 | 29 tháng 2, 2012 | Sân vận động Maksimir, Zagreb, Croatia | Croatia | 1–0 | 3–1 | Giao hữu |
30 | 30 tháng 5, 2012 | Sân vận động Ullevi, Gothenburg, Thụy Điển | Iceland | 1–0 | 3–2 | Giao hữu |
31 | 5 tháng 6, 2012 | Sân vận động Råsunda, Solna, Thụy Điển | Serbia | 2–1 | 2–1 | Giao hữu |
32 | 11 tháng 6, 2012 | Sân vận động Olympic, Kiev, Ukraina | Ukraina | 1–0 | 1–2 | Euro 2012 |
33 | 19 tháng 6, 2012 | Khu phức hợp thể thao quốc gia Olimpiyskiy, Kiev, Ukraina | Pháp | 1–0 | 2–0 | Euro 2012 |
34 | 12 tháng 10, 2012 | Sân vận động Tórsvøllur, Tórshavn, Quần đảo Faroe | Quần đảo Faroe | 2–1 | 2–1 | Vòng loại World Cup 2014 |
35 | 16 tháng 10, 2012 | Olympiastadion, Berlin, Đức | Đức | 1–4 | 4–4 | Vòng loại World Cup 2014 |
36 | 14 tháng 11, 2012 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Anh | 1–0 | 4–2 | Giao hữu |
37 | 2–2 | |||||
38 | 3–2 | |||||
39 | 4–2 | |||||
40 | 11 tháng 6, 2013 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Quần đảo Faroe | 1–0 | 2–0 | Vòng loại World Cup 2014 |
41 | 2–0 | |||||
42 | 14 tháng 8, 2013 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Na Uy | 1–0 | 4–2 | Giao hữu |
43 | 2–2 | |||||
44 | 3–2 | |||||
45 | 10 tháng 9, 2013 | Astana Arena, Astana, Kazakhstan | Kazakhstan | 1–0 | 1–0 | Vòng loại World Cup 2014 |
46 | 11 tháng 10, 2013 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Áo | 2–1 | 2–1 | Vòng loại World Cup 2014 |
47 | 19 tháng 11, 2013 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Bồ Đào Nha | 1–1 | 2–3 | Vòng loại World Cup 2014 |
48 | 2–1 | |||||
49 | 4 tháng 9, 2014 | Friends Arena, Solna, Sweden | Estonia | 1–0 | 2–0 | Giao hữu |
50 | 2–0 | |||||
51 | 15 tháng 11, 2014 | Sân vận động Podgorica City, Podgorica, Montenegro | Montenegro | 1–0 | 1–1 | Vòng loại Euro 2016 |
52 | 27 tháng 3, 2015 | Sân vận động Zimbru, Chişinău, Moldova | Moldova | 1–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 2016 |
53 | 2–0 | |||||
54 | 31 tháng 3, 2015 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Iran | 1–0 | 3–1 | Giao hữu |
55 | 14 tháng 6, 2015 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Montenegro | 2–0 | 3–1 | Vòng loại Euro 2016 |
56 | 3–0 | |||||
57 | 8 tháng 9, 2015 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Áo | 1–4 | 1–4 | Vòng loại Euro 2016 |
58 | 9 tháng 9, 2015 | Sân vận động Rheinpark, Vaduz, Liechtenstein | Liechtenstein | 2–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 2016 |
59 | 12 tháng 10, 2015 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Moldova | 1–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 2016 |
60 | 14 tháng 11, 2015 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Đan Mạch | 2–0 | 2–1 | Vòng loại Euro 2016 |
61 | 17 tháng 11, 2015 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Đan Mạch | 1–0 | 2–2 | Vòng loại Euro 2016 |
62 | 2–0 |
Danh hiệu :
Ajax
- Eredivisie: 2002, 2004
- KNVB Cup: 2002
- Johan Cruijff Shield: 2003
Internazionale
- Serie A: 2007, 2008, 2009
- Supercoppa Italiana: 2006, 2008
Barcelona
- Supercopa de España: 2009
- Siêu cúp bóng đá châu Âu: 2009
- FIFA Club World Cup: 2009
- La Liga: 2010
- Cá nhân
- Vua phá lưới Serie A: 1
-
- 2009
- Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất năm của Serie A: 3
-
- 2005, 2008, 2009
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Serie A: 2
-
- 2008, 2009
- Bàn thắng đẹp nhất mùa giải Serie A: 1
-
- 2008
- Guldbollen: 4
-
- 2005, 2007, 2008, 2009
- Jerringpriset (Cá nhân thể thao xuất sắc nhất năm của Thuỵ Điển): 1
-
- 2007
- Vận động viên nam người Thuỵ Điển xuất sắc nhất năm: 2
-
- 2007, 2010
- Đội hình tiêu biểu trong năm của UEFA: 4
-
- 2007, 2009, 2013, 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét